![]() |
Vườn rau tại quần đảo Trường Sa (Ảnh: Xuân Thủy) |
Huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa có điều kiện thời tiết khắc nghiệp, thổ nhưỡng chủ yếu là đất đá san hô kém dinh dưỡng, nhiễm mặt không phù hợp cho hoạt động trồng trọt nên việc trồng rau xanh, cây cối phát triển chậm. Chính điều kiện khí hậu khắc nghiệt khiến rau xanh trở thành của hiếm đối với quân và dân Trường Sa. Trong những năm qua, nhiều đơn vị, tổ chức trong cả nước đã không ngừng quan tâm, đầu tư hỗ trợ cho quân và dân Trường Sa phát triển các dự án về nông nghiệp để nâng cao hiệu quả tăng gia sản xuất. Nhờ đó, nguồn thực phẩm tươi, đặc biệt là rau xanh được đảm bảo, góp phần cải thiện bữa ăn cho cán bộ, chiến sỹ và nhân dân trên các đảo.
Nhưng dự án “Thử nghiệm hệ sinh thái hữu cơ trên quần đảo Trường Sa” là dự án đầu tiên đặt vấn đề áp dụng nông nghiệp hữu cơ để trồng rau xanh ở Trường Sa. Dự án do Viện Nghiên cứu và ứng dụng nông nghiệp hữu cơ (IOA) kết hợp với Bộ Tư lệnh Hải quân triển khai thực hiện từ tháng 5/2018. Chia sẻ với phóng viên Tạp chí Hữu cơ Việt Nam về lý do triển khai dự án ý nghĩa này, ông Nguyễn Văn Cường - Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Nông nghiệp Hữu cơ cho hay mọi chuyện bắt nguồn từ khoảng thời gian làm báo của mình
Là Nhà báo không nên chỉ nói mà phải làm
Là nhà báo đã có nhiều bài viết về biển đảo, thâm nhập thực tế là một mong mỏi của cây viết Hồng Chuyên (bút danh của anh Cường khi công tác tại báo điện tử infonet – PV). “Khi chọn bút danh, tôi nhớ lời Bác Hồ căn dặn đại ý rằng thanh niên phải vừa hồng vừa chuyên, nên đến Trường Sa là tâm nguyện để được nhìn, được biết đến từng phần đất của Tổ quốc mình vẫn viết mỗi ngày”, anh Cường thổ lộ.
Tháng 6/2013, mong mỏi của anh Cường trở thành hiện thực. Nhưng mong là vậy, trong lòng anh còn lắm băn khoăn. Anh vốn bị say tàu xe, không di chuyển bằng ô tô được xa, chỉ từng con sóng đã là mỗi thách thức đằng này là đi biển dài ngày anh phải đối mặt với hàng vạn con sóng trong suốt chuyến đi. Với tinh thần coi công việc trên hết, nên anh vẫn quyết tâm đi bất chấp những khó khăn thử thách đang chờ mình trong suốt chuyến đi.
Đây là chuyến đi đáng nhớ với anh Cường. Khi đó, Bộ Tư lệnh Hải quân tổ chức chuyến đi cho một số thân nhân lính biển, đi khá nhiều đảo với thời gian hơn 10 ngày. Gặp lúc biển động, với anh Cường mỗi con sóng tàu vượt qua thì anh như trải một cực hình. Nhiều ngày không ăn uống được, nôn nhiều đến ra máu, nhưng đó cũng là lần đầu tiên anh thấy cuộc sống người lính biển, những khó khăn và mất mát trong cuộc sống của họ.
Chuyến đi cho anh nhiều điều, từ cây viết về biển đảo bằng lý thuyết, pháp lý thì nay có thêm thực tế. Hơn tất cả, qua khó khăn anh nhận ra mọi thứ tưởng như không thể vượt qua rồi cũng sẽ đến lúc biến mất, chỉ cần một định hướng đúng và bản lĩnh như người lính biển. Những bài viết của Hồng Chuyên giai đoạn này đầy trăn trở về người lính biển, có lẽ đó cũng là điều thôi thúc anh tiếp tục gắn bó với biển đảo.
Đến tháng 6/2014, chuyến ra biển lần thứ hai đến với anh Cường khá bất ngờ. Anh tiếp tục ra biển Hoàng Sa khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc thâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gần quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc chiếm đóng trái phép.
Chuyến ra biển lần này, anh vừa phải đối mặt với những cơn say sóng khiến anh như “chết đi sống lại” vừa lao lên tác nghiệp ghi lại quá trình đấu tranh giữ vững chủ quyền của quân và dân ta trên vùng biển thiêng liêng của tổ quốc. Trở về từ chuyến đi này, anh hiểu hơn thực tế cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, những hiểm nguy luôn bủa vây. “Nó càng thôi thúc tôi không chỉ viết mà làm những điều ý nghĩa với biển đảo”, anh nói.
Sau chuyến đi, Hồng Chuyên lập nhóm Hậu phương người lính biển, tập hợp bạn bè nhà báo, các mạnh thường quân… để tìm những cảnh đời hậu phương người lính biển gặp khó khăn, giúp họ bằng khả năng của những tấm lòng thiện nguyện.
Hàng chục trường hợp hậu phương người lính gặp khó khăn đã được nhóm hỗ trợ, như trường hợp con lính biển mồ côi cả cha lẫn mẹ được nhóm hỗ trợ đến khi trưởng thành; giúp đỡ người lính biển có vợ bị ung thư; giúp đỡ nhiều thân nhân lính biển khác bị ung thư, bệnh trọng, con lính biển không hậu môn…
Quá trình hỗ trợ nhiều người bệnh, Hồng Chuyên lưu giữ một băn khoăn về nguồn cơn gây bệnh. Khi chuyển nhà từ Ba Đình về Hà Đông, anh chứng kiến nhiều lần cảnh người nông dân phun thuốc sâu, thuốc diệt cỏ trên ruộng rau, anh ngộ ra “bệnh tật vào qua miệng”. Sự chiêm nghiệm ấy thôi thúc Hồng Chuyên quan tâm đến thực phẩm sạch.
Khởi đầu từ việc gom thịt lợn, gà sạch quanh xóm cho bạn bè, người thân, Hồng Chuyên sau khi được một người bạn từ Nhật về đã chia sẻ về mô hình nuôi giun, trùn quế nhỏ để làm phân bón sạch cho cây trồng. Nhận thấy nếu chỉ làm vậy thì sẽ rất khó thay đổi cách thức canh tác, chăn nuôi của người nông dân, thị trường vẫn phải dùng mãi thực phẩm không sạch, nên anh quyết định sẽ hỗ trợ họ thay đổi cách làm nông nghiệp.
Ấp ủ từ năm 2015, đến 10/5/2017 anh cùng các nhà khoa học gồm Tiến sĩ Sinh hóa Phạm Văn Quang, Tiến sĩ Y học Lê Phi Diệt, Kỹ sư Nông nghiệp Phạm Thanh… thành lập Viện Nghiên cứu và ứng dụng Nông nghiệp hữu cơ, thuộc Liên hiệp Các hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam với mong muốn ứng dụng cách thức làm nông nghiệp hữu cơ sao cho phổ cập rộng rãi hơn ra xã hội. Ngay sau khi thành lập, IOA đã triển khai đề tài Thử nghiệm hệ sinh thái hữu cơ để trồng rau xanh tại quần đảo Trường Sa.
![]() |
Tháp rau hữu cơ được trồng thử nghiệm tại 3 đảo là Len Đao, Sinh tồn, Cô Lin. |
Thực hiện Kế hoạch 490/KH-HC, ngày 16/1/2018, giữa Cục Hậu cần Hải quân và Viện Nghiên cứu và ứng dụng nông nghiệp hữu cơ (gọi tắt là Viện Nông nghiệp hữu cơ), do Bộ Tư lệnh Hải quân phê duyệt. Từ ngày 14/5/2018 đến ngày 21/06/2018, đoàn công tác của Viện Nông nghiệp hữu cơ đã triển khai dự án tại các đảo gồm: Sinh Tồn, Song Tử Tây, Cô Lin, Len Đao. Ở mỗi đảo, các chuyên gia của IOA đã thả ra môi trường các chủng vi sinh vật với chức năng phân giải lân, cố định đạm để cải tạo đất, giúp cây trồng phát triển tốt. Những vi sinh vật này được nhân chủng ở Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Đồng thời, các chuyên gia tiến hành lấy mẫu đất và nước ở mỗi đảo đưa về đất liền nghiên cứu, tìm ra những vi sinh vật hữu cơ có lợi cho cây trồng. Từ đó nhân lên rồi đưa trở lại Trường Sa để thả xuống các đảo nhằm từng bước cải thiện môi trường đất, nước theo hướng có lợi.
Niềm tin để thực hiện ở các đảo còn lại
Trong chuyến đi, Đoàn công tác Viện Nông nghiệp hữu cơ đã mang theo 10 tấn giá thể phân giun, 1.000 gói phân hữu cơ sinh học nano, 15 tháp rau hữu cơ ứng dụng công nghệ Mỹ, 24 chai vi sinh có lợi cho cây trồng có tỉ lệ vi sinh cao, các loại nấm đối kháng khác, hạt giống và giun giống. Đặc biệt, trong đó có 1.000 bầu cỏ Vetiver đã được thuần dưỡng trong điều kiện có muối.
Tại đảo Sinh Tồn, đoàn công tác đã cho triển khai trồng thử 500 bầu cỏ vetiver ở các vị trí khác nhau để thử độ thích nghi của cỏ. Cỏ Vetiver là một loại cỏ đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho phép nhập vào Việt Nam từ nhiều năm nay để chống sạt lở cho các công trình đê kè.
Về cỏ Vetiver, theo đánh giá của anh Cường thì Trường Sa nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, là vùng khí hậu rất thích hợp để loài cỏ này phát triển. Khi rễ đạt 4-5m, chúng có thể chịu được 10-12 tháng không mưa. Vetiver sinh trưởng, ngoài chống cát bay, giữ đất, giữ nước, chúng cũng là nguồn thức ăn cho vật nuôi như: Bò, dê, thỏ... Và chất thải từ các vật nuôi này chính là nguồn cung đầu vào cho nuôi giun quế tại đảo. Và giun quế ngoài việc tạo chất mùn tự nhiên cải tạo cho đất, thì nó cũng chính là nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng để chăn nuôi con vật khác như: gà, vịt...
![]() |
Ảnh minh họa |
Phần lá cỏ Vetiver được tận dụng làm rơm phủ sinh mùn cho đất, làm phân hữu cơ tự nhiên trồng rau màu trên đảo. Khi trưởng thành, 1 ha cỏ Vetiver có thể cho từ 80-120 tấn cỏ khô. Đây là nguồn phân mùn vô cùng dồi dào tại chỗ cho đảo. Vetiver có thể là giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn nước thải hồi quy, có thể ứng dụng Vetiver trong xử lý nước thải chăn nuôi, nước thải sinh hoạt. Hàng cỏ dày, cao cũng có thể được vận dụng cơ động trong huấn luyện, chiến đấu. Điều quan trọng, với bộ rễ phát triển mạnh, có thể ăn sâu 3-4m, Vetiver có thể chống chịu được mùa hạn. Nếu được trồng với số lượng lớn, đan dày vào nhau xung quanh đảo thì với tính năng lọc nước, xử lý môi trường của rễ cỏ, chúng tôi cho rằng, rễ cỏ có thể làm giảm lượng muối khi nước biển ngấm vào đảo và làm ngọt hóa đảo. Thực tiễn thử nghiệm trước khi mang ra Trường Sa, chúng tôi đánh giá cao về khả năng chống chịu hạn của cỏ Vetiver.
Đặc biệt, IOA đã thử nghiệm lắp đặt 15 hệ thống tháp rau hữu cơ cho bộ đội các đảo. Mỗi tháp rau cao khoảng 1,5m, có 60 hốc trồng được nhiều loại rau xanh, có thể di chuyển khi trời mưa, bão. Các tháp rau này cho năng suất cao, lại không chiếm quá nhiều diện tích như trồng rau trong khay hay thùng xốp. Đặc biệt, phần lõi tháp có khoang thả nuôi trùn quế để cung cấp dinh dưỡng cho rau nên không phải bón phân hay thay đất trong nhiều năm. Đáy tháp có khay hứng nước thừa khi tưới để tái sử dụng.
Đến nay, hệ thống tháp rau đang phát huy rất hiệu quả, trung bình mỗi tháp cung cấp rau xanh hàng ngày cho khoảng 10 người ăn. Đối với giá thể trùn quế cũng phát triển mạnh nhờ chúng tôi hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cho bộ đội. Đặc biệt, khi trùn quế phát triển nhiều có thể dùng làm thức ăn chăn nuôi gia cầm, thủy sản. Thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình này ở Trường Sa.
Sau 7 năm triển khai, dù chưa có cơ hội trực tiếp quay trở lại quần đảo Trường Sa để ngắm nhìn những thành quả mà dự án đem lại cho quân và dân Trường Sa nhưng qua những kênh thông tin khác nhau, anh vẫn nhìn thấy những thành quả của dự án đã và đang góp phần tạo hệ sinh thái có lợi, tạo môi trường xanh, cải thiện điều kiện sống cho quân dân Trường Sa, tiền đề quan trọng cho các hoạt động môi trường ở Việt Nam. Bởi nước ta có hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ, nếu khắc nghiệt như ở Trường Sa mà vẫn thành công thì đó là niềm tin lớn để thực hiện ở các đảo còn lại.