![]() |
Trang trại bưởi diễn đạt chuẩn hữu cơ của anh Nguyễn Xuân Khải đem lại thu nhập từ 4 đến 5 tỷ trên năm |
Vùng đất tiềm năng nhưng chưa bật dậy
Thanh Hóa là một trong những tỉnh có diện tích đất nông nghiệp lớn, với hệ sinh thái trải dài từ đồng bằng, trung du tới miền núi - sở hữu tiềm năng lớn để phát triển nền nông nghiệp sạch. Những vùng như Thường Xuân, Quan Hóa, Mường Lát… vẫn giữ được thổ nhưỡng và môi trường ít chịu tác động từ hóa chất, là điều kiện lý tưởng cho mô hình canh tác hữu cơ.
Chính quyền tỉnh đã sớm nhận diện xu thế phát triển này và ban hành các chính sách thúc đẩy. Trong đó có thể kể đến Nghị quyết 192/2019/NQ-HĐND khuyến khích tích tụ đất đai, và Nghị quyết 185/2021/NQ-HĐND về phát triển nông nghiệp – nông thôn – nông dân giai đoạn 2022–2025. Đây là những nền tảng pháp lý quan trọng nhằm thu hút nguồn lực, khuyến khích sản xuất quy mô lớn và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Tuy nhiên, kết quả đạt được vẫn còn khá khiêm tốn. Tính đến nay, toàn tỉnh mới chỉ có 7 cơ sở sản xuất hữu cơ trong lĩnh vực trồng trọt được cấp chứng nhận, với diện tích hơn 15 ha – một con số chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng.
![]() |
Mô hình kinh tế tổng hợp theo hưỡng hữu cơ của chị Nguyễn Thị Hoan, thôn Én Giang, xã Quảng Hợp |
Cản trở lớn nằm ở việc thiếu kiến thức và kỹ thuật canh tác hữu cơ trong cộng đồng nông dân. Quá trình chuyển đổi từ phương thức truyền thống sang hữu cơ cần thời gian, sự hướng dẫn cụ thể và đặc biệt là chi phí lớn cho cải tạo đất, giống, phân bón sinh học. Đây là điều không dễ đối với đại đa số nông hộ vốn đã quen với mô hình sản xuất cũ dựa vào thuốc hóa học và phân vô cơ.
Ông Lê Xuân Hoằng, một hộ canh tác bưởi hữu cơ tại xã Ngọc Phụng (Thường Xuân), chia sẻ:“Đầu tư ban đầu rất tốn kém, trong khi người tiêu dùng còn chưa hiểu rõ giá trị sản phẩm hữu cơ. Chúng tôi biết đây là hướng đi đúng, nhưng vẫn cần nhiều hỗ trợ để trụ vững.”
Ngoài ra, đầu ra chưa ổn định, xây dựng thương hiệu còn yếu, cạnh tranh chưa lành mạnh (do hàng nhái, hàng giả trà trộn) là những lực cản không nhỏ. Nhiều sản phẩm hữu cơ gặp khó khăn trong việc định vị trên thị trường do hình thức không bắt mắt, chưa đủ độ tin cậy với người tiêu dùng.
Tiến sĩ Nguyễn Trọng Quyền, Trưởng phòng Quản lý Khoa học Viện nôn nghiệp Thanh Hóa cho biết: “Việc thiếu minh bạch trong chứng nhận và kiểm soát chất lượng sản phẩm đang làm suy giảm niềm tin của người tiêu dùng, ảnh hưởng tới toàn bộ chuỗi giá trị nông sản hữu cơ. Các tiêu chuẩn như TCVN hay quốc tế là rất cần thiết, nhưng việc triển khai tại địa phương còn thiếu đồng bộ.”
Một vấn đề nữa là sự thiếu hụt cán bộ kỹ thuật được đào tạo bài bản về nông nghiệp hữu cơ, khiến nhiều mô hình chỉ dừng ở mức thử nghiệm hoặc nhỏ lẻ. Nông dân phần lớn học hỏi qua truyền miệng hoặc kinh nghiệm tích lũy dần, nên hiệu quả không đồng đều.
![]() |
Ruộng tỏi đạt chuẩn hữu cơ tại thôn Cẩm Bộ, xã Thành Minh, huyện Thạch Thành |
Những bước đi tiên phong và sức mạnh của sự đồng lòng
Dù còn nhiều thử thách, một số mô hình sản xuất hữu cơ tại Thanh Hóa đang cho thấy hướng đi tích cực: như mô hình lúa – rươi; lúa – cá tại huyện Nông Cống, bưởi hữu cơ ở huyện Yên Định, hay gà thịt hữu cơ tại xã Đông Tiến, thành phố Thanh Hóa. Những mô hình này không chỉ đem lại thu nhập cao hơn cho người nông dân mà còn góp phần phục hồi môi trường sinh thái, nâng cao giá trị nông sản.
Tại huyện Yên Định, mô hình lúa – cá đang được áp dụng trên diện tích gần 10 ha, bước đầu cho hiệu quả rõ rệt. Người dân vừa có thể thu hoạch lúa, vừa tận dụng hệ sinh thái để nuôi cá sạch, tăng thu nhập mà không cần sử dụng hóa chất. Trong khi đó, mô hình gà thịt hữu cơ tại xã Đông Lĩnh (TP Thanh Hóa) do một hợp tác xã thanh niên vận hành, đã tạo ra sản phẩm có đầu ra ổn định tại các siêu thị trong tỉnh và khu vực.
Ông Nguyễn Văn Chiến, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Nông Cống, nhận xét: “Chúng tôi thấy rõ tiềm năng, nhưng để mở rộng quy mô canh tác hữu cơ thì cần giải quyết nhiều bài toán từ nhân lực, kỹ thuật đến thị trường. Nếu không có doanh nghiệp đồng hành, nông dân rất khó đi đường dài.” Ông cũng nhấn mạnh thêm: “Một trong những rào cản lớn hiện nay là giá thành sản xuất nông sản hữu cơ còn cao, trong khi sức mua và mức độ chấp nhận giá của thị trường vẫn còn hạn chế. Nếu không có chính sách hỗ trợ về đầu ra hoặc tạo được chuỗi liên kết bền vững, nông dân sẽ rất dễ nản lòng”.
Cũng theo ông Chiến, giải pháp lâu dài là phải có sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước – Nhà nông – Doanh nghiệp. Chính quyền cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế hỗ trợ, đào tạo kỹ thuật, đảm bảo tính minh bạch trong chứng nhận. Doanh nghiệp đóng vai trò kết nối thị trường, còn người nông dân phải kiên trì và chuyển đổi tư duy sản xuất.
Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị của sản phẩm hữu cơ là điều không thể thiếu. Khi người tiêu dùng có thói quen lựa chọn thực phẩm sạch, an toàn, thì sản xuất hữu cơ mới thật sự phát triển bền vững. Các chiến dịch truyền thông, hội chợ nông sản sạch, các chương trình truyền hình về nông nghiệp thông minh – hữu cơ cũng cần được đẩy mạnh.
Một yếu tố nữa không thể bỏ qua là chuyển đổi số trong nông nghiệp hữu cơ. Việc ứng dụng phần mềm truy xuất nguồn gốc, quản lý sản xuất theo quy trình kỹ thuật số sẽ giúp nâng cao sự minh bạch, tạo niềm tin với thị trường.
Cuối cùng, cần có chính sách khuyến khích thanh niên, phụ nữ và người dân tộc thiểu số tham gia phát triển nông nghiệp hữu cơ – nhóm đối tượng quan trọng trong việc duy trì và lan tỏa các mô hình tại miền núi, vùng sâu vùng xa.